Ký ức, Ý thức trong Nước của cơ thể người - Những cơ sở khoa học cho lời giải

Được biết rằng, nước (H2O) là thứ có thể lưu trữ thông tin, giống như ổ cứng của máy tính mà không cần đến điện năng. Đây là khẳng định được các nhà khoa học kiểm định từ nhiều năm trước. 

Hàng loạt các thí nghiệm diễn ra từ thập niên 80 của thế kỷ trước cho đến nay nhằm tìm hiểu "bộ nhớ của nước". Năm 1988, Jacques Benveniste và các đồng nghiệp đã công bố một nghiên cứu: NƯỚC CÓ TRÍ NHỚ - THÍ NGHIỆM CỦA JACQUES BENVENISTE

Ngoài ra, còn nhiều nghiên cứu khác về bộ nhớ của nước. Có người thì dùng kính hiển vi điện tử để soi xét như một khoa học trần tục. Theo đó, thí nghiệm khẳng định rằng, mọi thứ đi ngang qua nước đều được nó lưu trữ  lại. Ở cấp độ thô thiển, khi bạn thả bông hoa vào nươc stinh khiết, thì dùng kính hiển vi điện tử, có thể thấy dình dạng bông hoa trong cấu trúc nước. 

soi bộ nhớ của nước ở cấp độ thô thiển, nhìn thấy được

Ở cấp độ kỹ thuật số, tín hiệu điện từ, không thấy bằng mắt thường, thì nước cũng lưu trữ tín hiệu điện từ.  Cụ thể như sau: Thông tin DNA của sinh vật được mã hóa thành tín hiệu điện từ, trở thành một tệp tin (giống như 1 file trong máy tính bạn), sau đó dùng thiết bị phát ra tín hiệu điện từ này vào trong nước tinh khiết, thì khối nước này sẽ lưu trữ toàn bộ thông tin DNA. Bằng chứng là khối nước này phát ra tín hiệu điện từ (EMS). Dùng phương pháp tải nạp ngược, lại thu được 1 tập tin như ban đầu có chứa đầy đủ thông tin DNA. Việc làm này cần có thêm kỹ thuật điều biên, điều tần để tránh khỏi nhiễu từ môi trường trộn vào tập tin. 

Bài viết mô tả chi tiết về bộ nhớ của nước ở cấp độ vi tế: 
Câu hỏi kinh hiểm với khoa học phớt lờ sự thật: 
  1. Bộ nhớ, hay ký ức của con người có được chứa trong nước không?
  2. Nếu ký ức của con người nằm trong nước, thì 10 năm sau, khi ký ức đó vẫn còn, thì nó có nằm trong nước không?
  3. Ý thức của con người khi hoạt động có dựa vào nước không? Nếu có thì cơ chế của ý thức trong nước của não, cùng với các tế bào thần kinh vận hành như thế nào? 
  4. Nếu nước có ký ức, vậy có thể uống ký ức của người khác thông qua uống nước không? 
Câu trả lời ở thực ra đã có, nhưng nó nằm tản mác ở các công trình khoa học cổ xưa, cận đại, và một số học giả tổng hợp lại.

Ken Wheeler là người đọc hấu hết các công trình cổ xưa bằng nhiều thứ tiếng, và các công trình thời đại khoa học Ether. Sau đó anh ta dùng thực nghiệm và có những phát minh riêng cua rmình. 

Trong vài công trình mà Ken Wheeler có chia sẻ, anh ta viết quá ngắn gọn cho vấn đề mà tôi dề cập ở trên. Để giải thích, đưa ra lời giải đầy đủ, cần phải xem nhiều video và tài liệu khác của anh ta. 

Câu hỏi 4 về uống nước có chứa thông tin (năng lượng), hay là uống vào ký ức có liên quan đến bài viết sau: Tuệ Sỹ và thuyết âm mưu chỉ dành cho Phong Vân Dậy Sóng

Đại ý của câu trả lời cho các câu hỏi trên: 

Ký ức của con người đúng là được truy xuất từ nước mà ra.
Ý thức hiện sinh có được cũng dựa vào nước, sự phân cực của nước, hai đầu là H (hydro) giống như 2 đầu của ăng-ten lưỡng cực, nó vừa đảm nhiệm cho ý thức và việc truy xuất dữ liệu, và cũng ăng-ten nạp thông tin.

Nước có ảnh hưởng đến tuổi thọ, sức khỏe toàn diện, năng lực tâm linh, trí tuệ, cá tính, ... điều này làm cơ sở cho Tuệ Sỹ và thuyết âm mưu chỉ dành cho Phong Vân Dậy Sóng. Nước có thể được luyện hóa trong cơ thể. Nhưng nếu quá sức vì cấu trúc nước "tà ác", sẽ dẫn đến mệt mỏi và bất ổn. 

Con người thời nay mất tập trung với những vấn đề như triết học Plato, toán học, Kinh điển Phật giáo, hay không thể tập trung được vào lý lẽ của những người thời đại khác trong sách vở. Điều này là do DNA, cấu trúc nước, và thông tin ẩn trong nước mà họ uống vào. Đây là trích dẫn từ câu nói mà tôi thâu dược từ Ken Wheeler khi nói về nước và bộ nhớ: "Bạn biết đấy, mọi người đều có trí tuệ gần như của một con cá vàng, đến mức họ không thể nghe quá 30 giây mà bạn không biết, trợn mắt nhìn vào Lãng quên. Họ không có khả năng tập trung. Nó thực sự sẽ hướng tới việc giải thích vô số căn bệnh, bệnh ung thư, chứng điên rồ và chứng mất trí nhớ đang tồn tại trong nhân loại ngày nay, và nó còn rất nhiều."

Dưới đây là một số vấn đề chính, là cơ sở khoa học để trả lời cho "Câu hỏi kinh hiểm với khoa học phớt lờ sự thật". Theo đó, bạn có thể tìm thấy câu trả lời hay là lời giải cho câu đố này. Những cơ sở khoa học này chính là gợi ý để tìm ra lời giải. 

Theo tôi được biết từ Ken Wheeler, trên thế giới chưa ai đưa ra lời giải đầy đủ, ngay cả chính anh ta. Nhưng xem xét lời giải tóm tắt của anh ta, thì lại là lời giải đầy đủ cho một đối tượng đã nghiên cứu.

Lời giải sẽ dựa theo lời giải tóm tắt của Ken Wheeler, kết hợp với các cơ sở khoa học khác, tất cả được trình bày ở dưới đây:

1/ Anten lưỡng cực

Sơ đồ hoạt hình của ăng -ten lưỡng cực nửa bước sóng nhận sóng vô tuyến:


Ăng-ten bao gồm hai thanh kim loại được nối với máy thu R. Điện trường E, mũi tên màu xanh lá cây ) của sóng tới đẩy các electron trong các thanh tới lui, tích điện ở hai đầu lần lượt dương (+) và âm (-) . Vì chiều dài của ăng-ten bằng một nửa bước sóng của sóng nên trường dao động tạo ra các sóng đứng có điện áp V, biểu thị bằng dải màu đỏ ) và dòng điện trong các thanh. Dòng điện dao động (mũi tên đen) chạy dọc đường truyền và qua máy thu (biểu thị bằng điện trở R ).


Hoạt hình của một lưỡng cực nửa sóng:


Hoạt hình của một lưỡng cực nửa sóng truyền cho thấy điện áp màu đỏ , ) và hiện tại màu xanh da trời , ) do sóng dừng trên anten. Vì sóng đứng chủ yếu lưu trữ năng lượng chứ không vận chuyển năng lượng nên dòng điện không cùng pha với điện áp mà lệch pha 90°. Đường dây truyền tải áp dụng một điện áp dao độngtừ máy phát giữa hai phần tử anten, tạo ra dao động hình sin. Bước điện áp nguồn đã được tăng lên để dễ nhìn; các lưỡng cực điển hình có hệ số Q đủ cao để điện áp cấp vào nhỏ hơn nhiều so với sóng đứng. Vì ăng-ten được cấp điện ở tần số cộng hưởng của nó, điện áp đầu vào cùng pha với dòng điện (thanh màu xanh), do đó ăng-ten thể hiện điện trở thuần đối với đường cấp liệu. Năng lượng từ dòng điện cung cấp năng lượng bức xạ dưới dạng sóng vô tuyến. Ở anten thu, pha của điện áp trên đường truyền sẽ bị đảo ngược do máy thu hấp thụ năng lượng từ anten.

Đó là thông tin từ WIKIPEDIA: Anten lưỡng cực

Lưu ý quan trọng: sóng vô tuyến không phải là sóng ngang như phương trình Maxwell. Mô tả ở hình trên chỉ mang tính chất tượng trưng, minh họa mà thôi.  Sóng điện từ  Ngoài ra, thuật ngữ như electron ám chỉ đối tượng không có thật như định nghĩa của nó. Hạt electron đưa vào trong vật lý được ví như "mê tín thời tiền sử" thâm nhập vào khoa học hiện đại.

Sự tương quan: 


Hình trên là sự tương quan giưuã lưỡng cực của ăng ten, 2 đầu tương ứng với 2 đầu của phân tử nước là H và H. 

Trí nhớ được lưu trữ trong cấu trúc của các phân tử nước, đặc biệt là trong các hốc của cấu trúc.

2/ Tam giác vàng, còn gọi là tam giác siêu phàm

Tam giác vàng , còn gọi là tam giác siêu phàm , là tam giác cân trong đó cạnh nhân đôi có tỷ lệ vàng  về phía cơ sở:


Một hình tam giác vàng. Tỉ số a/b là tỉ số vàng φ. Góc đỉnh là Các góc cơ sở là 72° mỗi góc.



Gnon vàng, có độ dài các cạnh 1, 1 và 

  • Tam giác vàng (sieu phàm) được xác định là tam giác duy nhất có ba góc tỷ lệ 1 : 2 : 2 (36°, 72°, 72°)
  • Tam giác Gnon vàng là "nghịch đảo" của tam giác siêu phàm, có tỷ lệ về phía cơ sở là 1/

Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/Golden_triangle_(mathematics) - tam giác siêu phàm

3/ Sự tương tự của đường phân chia

Dưới đây là phần nội dung tôi copy từ Wikipedia. Bạn có thể bỏ qua nhiều nội dung, chỉ cần quan tâm đến:
  1. Đường phân chia
  2. Bảng tóm tắt của đường chia
Vậy là đủ rồi. Phần còn lại dành cho những ai thích triết học.

Sự tương tự của đường phân chia ( tiếng Hy Lạp : γραμμὴ δίχα τετμημένη , dịch.  grammē dicha tetmēmenē ) được trình bày bởi triết gia Hy Lạp Plato trong Cộng hòa (509d–511e). Nó được viết như một cuộc đối thoại giữa Glaucon và Socrates , trong đó Glaucon giải thích thêm về sự tương tự ngay trước đó của mặt trời theo yêu cầu của Glaucon. Socrates yêu cầu Glaucon không chỉ hình dung ra đường chia đôi không bằng nhau này mà còn tưởng tượng việc chia đôi thêm từng đoạn trong số hai đoạn đó. Socrates giải thích rằng bốn phân đoạn kết quả đại diện cho bốn 'tình cảm' (παθήματα) riêng biệt của tâm lý. Hai phần dưới được cho là đại diện cho phần nhìn thấy được trong khi hai phần trên được cho là đại diện cho phần dễ hiểu . Những tình cảm này được mô tả lần lượt tương ứng với mức độ ngày càng tăng của thực tế và sự thật từ phỏng đoán ( εἰκασία ) đến niềm tin ( πίστις ) đến suy nghĩ ( διάνοια ) và cuối cùng là hiểu biết ( νόησις ). Hơn nữa, sự tương tự này không chỉ xây dựng một lý thuyết về tâm lý mà còn trình bày các quan điểm siêu hình và nhận thức luận.

Plato

Trong The Republic (509d–510a), Socrates mô tả đường phân chia đối với Glaucon theo cách này:

Bây giờ hãy lấy một đường thẳng đã được cắt thành hai phần không bằng nhau và chia chúng lại theo tỷ lệ như nhau, [2] và giả sử hai phần chính trả lời, một phần là phần nhìn thấy được và phần còn lại là phần hiểu được, sau đó so sánh các phân chia liên quan đến sự rõ ràng và sự thiếu rõ ràng của chúng, và bạn sẽ thấy rằng phần đầu tiên trong phạm vi nhìn thấy được bao gồm các hình ảnh. Và ý tôi là, qua hình ảnh, trước hết là những cái bóng, và thứ hai là những hình ảnh phản chiếu trong nước và những vật thể rắn chắc, mịn màng và bóng loáng và những thứ tương tự: Bạn có hiểu không?

Tôi hiểu.

Bây giờ, hãy tưởng tượng phần khác, mà đây chỉ là điểm tương đồng, bao gồm các loài động vật mà chúng ta nhìn thấy và mọi thứ phát triển hoặc được tạo ra. 


Đường phân chia – ( AC ) thường được coi là đại diện cho thế giới hữu hình và ( CE ) đại diện cho thế giới có thể hiểu được

Thế giới hữu hình:

Do đó AB đại diện cho bóng và hình ảnh phản chiếu của các vật thể, còn BC đại diện cho chính các vật thể đó. Những điều này tương ứng với hai loại kiến ​​​​thức , ảo ảnh ( eikasía ) về trải nghiệm thông thường hàng ngày của chúng ta và niềm tin (πίστις pistis ) về các vật thể vật chất rời rạc tạo ra bóng của chúng. Trong Timaeus , phạm trù ảo tưởng bao gồm tất cả "những quan điểm mà tâm trí người bình thường chứa đầy", trong khi khoa học tự nhiên được xếp vào phạm trù niềm tin.

Thuật ngữ eikasía ( tiếng Hy Lạp cổ : εἰκασία ), có nghĩa là phỏng đoán trong tiếng Hy Lạp, được Plato sử dụng để chỉ cách con người đối phó với vẻ bề ngoài. Đặc biệt, nó được xác định là phần phụ phía dưới của đoạn nhìn thấy được và thể hiện hình ảnh, mà Plato mô tả là "ban đầu là bóng tối, sau đó là phản chiếu trong nước và trong tất cả các vật liệu nén, mịn và sáng bóng".Theo triết gia này, eikasia và pistis gộp lại thành doxa , liên quan đến nguồn gốc (trở thành). 

Eikasia có một số cách giải thích. Ví dụ, đó là việc không có khả năng nhận biết liệu nhận thức có phải là hình ảnh của một vật khác hay không. Do đó, nó ngăn cản chúng ta nhận thức rằng giấc mơ , ký ức hay hình ảnh phản chiếu trong gương không phải là thực tế . Một biến thể khác được các học giả như Yancey Dominick đưa ra, giải thích rằng đó là một cách hiểu về các bản gốc tạo ra các đối tượng được coi là eikasia . Điều này cho phép người ta phân biệt hình ảnh với thực tế, chẳng hạn như cách người ta có thể tránh nhầm hình ảnh phản chiếu của một cái cây trong vũng nước với một cái cây. 

Thế giới có thể hiểu được:

Theo một số bản dịch, [2] đoạn CE , đại diện cho thế giới dễ hiểu, được chia thành cùng tỷ lệ với AC , tạo thành các phân khu CD và DE (có thể dễ dàng xác minh rằng CD phải có cùng độ dài với BC : [9 ]

Có hai phần, trong phần dưới, linh hồn sử dụng các hình ảnh do phần trước đưa ra làm hình ảnh; cuộc điều tra chỉ có thể mang tính giả thuyết, và thay vì đi lên tới một nguyên tắc thì lại đi xuống đầu bên kia; ở mức cao hơn, linh hồn thoát ra khỏi các giả thuyết và đi đến một nguyên tắc cao hơn các giả thuyết, không sử dụng hình ảnh như trong trường hợp trước mà chỉ tiến hành trong và thông qua chính các ý tưởng (510b). [3]

Plato mô tả CD , "thấp hơn" trong số này, liên quan đến lý luận toán học (διάνοια dianoia ), [4] trong đó các đối tượng toán học trừu tượng như đường hình học được thảo luận. Những vật thể như vậy nằm ngoài thế giới vật chất (và không nên nhầm lẫn với hình vẽ của những đường đó nằm trong thế giới vật chất BC ). Tuy nhiên, đối với Plato, chúng ít quan trọng hơn các chủ đề hiểu biết triết học (νόησις noesis ), phần "cao hơn" của hai phân khu này ( DE ):

Và khi tôi nói về sự phân chia khác của cái có thể hiểu được, bạn sẽ hiểu tôi đang nói về loại tri thức khác mà lý trí đạt được nhờ sức mạnh của phép biện chứng, sử dụng các giả thuyết không phải như những nguyên tắc đầu tiên mà chỉ như những giả thuyết - nghĩa là để có thể nói, như những bước và điểm khởi hành vào một thế giới vượt trên các giả thuyết, để cô ấy có thể vượt xa chúng đến nguyên tắc đầu tiên của tổng thể (511b). [3]

Plato ở đây đang sử dụng mối quan hệ quen thuộc giữa các vật thể thông thường và bóng hoặc hình ảnh phản chiếu của chúng để minh họa mối quan hệ giữa thế giới vật chất nói chung và thế giới Ý tưởng (Hình thức) nói chung. Cái trước được tạo thành từ một loạt các phản ánh thoáng qua của cái sau, vốn vĩnh cửu, thực tế hơn và “chân thực hơn”. Hơn nữa, kiến ​​thức mà chúng ta có về các Ý tưởng - trong khi thực sự chúng ta có nó - ở cấp độ cao hơn kiến ​​thức về thế giới vật chất đơn thuần. Đặc biệt, kiến ​​thức về các hình thức sẽ dẫn tới kiến ​​thức về Ý tưởng (Hình thức) của Cái Tốt .

Bảng tóm tắt của đường chia:

Bộ phậnTương quanTình cảm của tâm lýLoại đối tượngPhương pháp tâm lý hoặc mắtSự thật tương đối và thực tế
DEKiến thức ( νόησις )Kiến thức (Hiểu): chỉ hiểu những gì có thể hiểu được ( νοητόν )Chỉ những Ý tưởng, tất cả đều được chính cái Tốt ban cho sự tồn tại và chân lý (τὸ αὐτὸ ἀγαθόν)Tâm lý xem xét tất cả các giả thuyết của Phép biện chứng, không sử dụng sự giống nhau, luôn hướng tới Nguyên tắc đầu tiênCao nhất
CDDianoia ( διάνοια )Kiến thức (Suy nghĩ): suy nghĩ nhận biết nhưng không chỉ thuộc về cái có thể hiểu đượcMột số ý tưởng, đặc biệt là về Hình học và SốPsyche giả định các giả thuyết trong khi sử dụng những điểm giống nhau, luôn hướng tới những kết luận cuối cùngCao
BCPistis ( πίστις )Opinion (Niềm tin): niềm tin liên quan đến những thứ hữu hìnhnhững thứ nhìn thấy được ( ὁρατά )Mắt đưa ra những dự đoán có thể xảy ra khi quan sát những vật nhìn thấy đượcthấp
ABEikasia ( εἰκασία )Ý kiến ​​(Trí tưởng tượng): phỏng đoán liên quan đến sự giống nhauhình ảnh của những thứ hữu hình ( εἰκόνες )Mắt phán đoán khi quan sát hình dáng của những vật nhìn thấy đượcthấp nhất

Tầm quan trọng siêu hình:

Sự tương tự của đường phân chia là nền tảng của khuôn khổ siêu hình của Plato. Cấu trúc này minh họa bức tranh tổng thể về siêu hình học, nhận thức luận và đạo đức học của Plato, tất cả trong một. Nhà triết học chỉ hiểu các Ý tưởng (Hình thức) thôi là chưa đủ, anh ta còn phải hiểu mối quan hệ của Ý tưởng với cả bốn cấp độ của cấu trúc thì mới có thể biết được bất cứ điều gì. [10] [11] [12] Ở Cộng hòa , triết gia phải hiểu Ý tưởng về Công lý để sống một cuộc sống công bằng hoặc để tổ chức và cai trị một nhà nước công bằng. [13]


Đường phân chia cũng đóng vai trò là kim chỉ nam cho hầu hết siêu hình học trong quá khứ và tương lai. Cấp độ thấp nhất, đại diện cho “thế giới của sự trở thành và diệt vong” ( Republic , 508d), là mô hình siêu hình cho triết lý Heraclitean về dòng chảy không ngừng và cho triết lý Protagorean về hình thức và quan điểm. Cấp độ thứ hai, thế giới của những vật thể vật chất cố định, [14] [15] cũng trở thành mô hình siêu hình học của Aristotle . Cấp độ thứ ba có thể là cấp độ toán học Pythagore . Cấp độ thứ tư là hiện thực Parmenide lý tưởng của Plato , thế giới của những Ý tưởng cấp cao nhất.

Ý nghĩa nhận thức luận:

Plato giữ một quan niệm rất nghiêm ngặt về kiến ​​thức. Ví dụ, anh ta không chấp nhận kiến ​​​​thức chuyên môn về một chủ đề, cũng như nhận thức trực tiếp (xem Theaetetus ), cũng như niềm tin thực sự về thế giới vật chất ( Meno ) là kiến ​​​​thức. Nhà triết học chỉ hiểu các Ý tưởng (Hình thức) thôi là chưa đủ, anh ta còn phải hiểu mối quan hệ của Ý tưởng với cả bốn cấp độ của cấu trúc thì mới có thể biết được bất cứ điều gì. [16] Vì lý do này, trong hầu hết các cuộc đối thoại Socrates trước đó, Socrates phủ nhận kiến ​​thức cho cả bản thân và những người khác.

Đối với cấp độ đầu tiên, “thế giới của sự trở thành và diệt vong,” Plato phủ nhận một cách rõ ràng khả năng có được tri thức. [17] Sự thay đổi liên tục không bao giờ giữ nguyên, do đó, tính chất của các đối tượng phải quy chiếu đến các Ý tưởng khác nhau ở những thời điểm khác nhau. Lưu ý rằng để có thể có được kiến ​​thức, điều mà Plato tin tưởng, ba cấp độ còn lại phải không thay đổi. Cấp độ thứ ba và thứ tư, toán học và Ý tưởng, là vĩnh cửu và không thay đổi. Tuy nhiên, để đảm bảo rằng cấp độ thứ hai, thế giới vật chất, khách quan, cũng không thay đổi, Plato, trong Cộng hòa , Quyển 4 [18] đưa ra các hạn chế tiên đề có nguồn gốc thực nghiệm [19] [20] [21] cấm cả chuyển động và dịch chuyển. quan điểm. [14] [22]


4/ Bí mật sâu sắc nhất của nước: Tỷ lệ hài hòa

SỰ TỶ LỆ HÀI HÒA HOÀN HẢO &
TÍNH KHÔNG THỂ ĐẢM BẢO CỦA PHÂN TỬ NƯỚC.
CƠ SỞ CỦA TẤT CẢ CUỘC SỐNG & Ý THỨC
Tác giả: Ken Wheeler


Được in tại Hoa Kỳ

Sơ đồ 1


Tôi đã làm việc gần 20 năm với hình tam giác 108-36-36 cụ thể này, đây là hình học hài hòa tuyệt đối hoàn hảo duy nhất theo Pythagore (và tương tự như vậy trong tam giác ba bên tạo nên ngôi sao năm cánh Pythagore), và không phải ngẫu nhiên khi nước được phủ lên trên. hình học này, bản thân nước cũng là chính nó; bây giờ có thể nhìn thấy nhiều mức độ tỷ lệ hài hòa hoàn hảo. Nước là một phân tử phân cực, có MẶT BẰNG QUÁ TRÌNH chứa góc có nghĩa là SỰ SỐNG (85). Không có nước thì không có sự sống, không có ý thức. Có ba góc vàng, 85, 108, 137,5077, và trong đó, nước có 100% hài hòa hoàn hảo, không thể so sánh được, cả các thành phần, tổng thể, mặt phẳng quán tính và các tỷ lệ của nó.




Sơ đồ 2


Các đường thủy bên dưới, trong một lớp điều hòa hoàn hảo khác, của phân tử nước tồn tại ở trục oxy và với bazơ là 1, thứ hai là ở trục hydro và với bazơ Phi (1.618..), và cuối cùng là ở gốc của phân tử có gốc bằng 2 cộng Phi^-2 (tuổi thọ, hoặc 0,381966), hoặc tổng cộng là 2,381966. Hấp dẫn (hoàn toàn không phải vì hình học này là hình học hoàn hảo duy nhất được tuyên bố bởi những người theo trường phái Pythagore cổ đại và chứa chính phân tử nước), tổng các phần hài hòa của 1, Phi và 2+Phi^-2 = 5. “Mọi thứ hoàn thiện trong ngũ giác”- Pythagoras. Tương tự như vậy, một số nền văn hóa cổ đại đã tuyên bố sự sống và TẤT CẢ (pan) hoàn thành trong hoặc ở mức 5.


Tất cả các góc cơ sở là 36 độ.

Điều đáng ngạc nhiên là, 'phần cuối' của toàn bộ hình học là 2 (1 ở trên cùng hoặc Agathon, sau đó là cơ số 1), có phần giữa là tỷ lệ vàng (Phi), tuy nhiên cơ sở là 2 và tuổi thọ (0,381966) , hoặc Phi^-2).








Sơ đồ 3


Góc vàng (trong tự nhiên có 3 góc là 85, 108, 137.5077) 135.5077 tượng trưng cho sự tăng trưởng, 85 tượng trưng cho sự sống (cũng = Phi^-2), và 108 tượng trưng cho (Phi^-3), cặp aoristos và kết quả biểu hiện của Cặp 1 và 1 không phân chia đầu tiên của Tuyệt đối và thuộc tính của nó (cả hai cùng nhau = 1, nhưng phép ngoại suy là 1 và 1). Góc thủy tinh ngược dưới 137,5 độ với đáy bằng 1


Góc đảo ngược màu đỏ dưới 85 độ tượng trưng cho sự sống, sự cân xứng hoàn hảo và tương tự như vậy tượng trưng cho MẶT BẰNG Quán tính của phân tử nước phân cực.


Góc màu xanh lá cây tượng trưng cho đường cắt hoàn hảo không thể đo được của toàn bộ tam giác 108-36-36 bao quanh toàn bộ phân tử nước.


Bao gồm mặt phẳng quán tính chữ V ngược của phân tử nước (màu đỏ bên dưới) , ba trung tâm hạt nhân của nó và trong nó hoàn toàn chứa tỷ lệ hài hòa hoàn hảo tuyệt đối và hoàn hảo 100%.






Phi từ lũy thừa -3 đến Phi lập phương

“Có [trong sự tồn tại của chúng ta] hai thứ, một thứ là Bản ngã đích thực (tâm lý), và thứ kia luôn theo đuổi thứ gì đó khác ngoài chính nó… một thứ luôn vì lợi ích của những thứ thực sự tồn tại, thứ còn lại là thứ đã trở thành vì mục đích của chúng ta. vì lợi ích của cái trước (psyche tou pantos)” [ Philebus 53d]

Khung Phi bắt đầu từ: 0,236067978 bằng cách tăng lũy ​​thừa của Phi để tạo ra chuỗi cộng: 0,381966011,


0,618033989, 1,00000000, 1,618033989, 2,618033989, 4,236067978, v.v. Toàn bộ Emanation được gói gọn trong 7

các số liệu tiến hành từ hai phía của Đơn nguyên, là Phi lũy thừa -3 đến Phi lập phương. Phi đến -3 là agnosis nguyên thủy

sự lựa chọn của nó đối với Đơn nguyên và hình thành cơ sở thực nghiệm và sự tách biệt của Nous, từ đó tạo ra “Thống nhất” và mọi thứ ở giữa

(eidos-vật chất-bắt chước). Tỷ lệ hoàn hảo với nhau so với Ngôi thứ 1, Đơn nguyên, Ngôi thứ 2 và Ngôi thứ 3 là

bình phương nghịch đảo của Phi, Psyche là Phi đến -2 và Nous (Thống nhất và dọc) là Phi bình phương. Sự đối lập với Agnosis là

tổng (4,23606), trong đó 1 chia cho agnosis = 4,23606 (1/.23606 = Phi lập phương). Các tỷ lệ còn lại thuộc về vật chất


và Hữu thể, cả hai đều có những phần bằng nhau về hình dạng và vật chất, với Hữu thể, sự kết hợp thực nghiệm đặc biệt của thực nghiệm

dễ hiểu. Chắc chắn đây là một bộ ba Pythagore khác mà Plato và những người trước đây của ông đã biết rõ. Ngoài ra chắc chắn là không

trùng hợp ngẫu nhiên, Nguyên tử thứ 2 và thứ 3 đều cách Phi một khoảng cách với Đơn nguyên nếu Đơn nguyên bị loại bỏ khỏi cả hai.

Điều thú vị là có 5 phần Phi đến -3, Phi đến -2 và Phi đến -1, nhưng chỉ có một phần Phi, Phi bình phương và Phi lập phương bên trong


Tam giác Pythagore 1-1-Phi.





Tam giác Pythagore 1-1-Phi và các thuộc tính của nó


“Thế giới là duy nhất; nó bắt đầu hình thành từ trung tâm ra ngoài. Bắt đầu từ trung tâm này, phần trên hoàn toàn giống với phần đế; bạn vẫn có thể nói rằng cái ở trên trung tâm đối lập với cái ở dưới nó; vì đối với đáy, điểm thấp nhất sẽ là trung tâm, còn đối với đỉnh, điểm cao nhất vẫn là trung tâm; và tương tự như vậy đối với các phần khác; trên thực tế, đối với tâm, mỗi điểm đối diện đều giống hệt nhau, trừ khi toàn bộ được di chuyển.” [MÁY PHILOLAUS Từ Boeckh 10. (Stob. Eclogl.1:5:7:p.360)]


Bây giờ cái gì hiện hữu phải là vật chất, hữu hình và hữu hình; và không gì có thể nhìn thấy được nếu không có lửa, hoặc hữu hình

không có cái gì rắn chắc, và không có gì rắn chắc mà không có đất. Do đó, Thần thánh, khi ông bắt đầu tập hợp cơ thể của vũ trụ,

bắt đầu tạo ra lửa và đất. Nhưng chỉ có hai thứ không thể kết hợp hài hòa nếu không có thứ thứ ba; vì phải có một số

sự gắn kết giữa họ kéo họ lại với nhau. Và trong tất cả các mối liên kết tốt nhất là cái khiến cho chính nó và những điều khoản mà nó kết nối thành một thể thống nhất trong

ý nghĩa đầy đủ nhất; và bản chất của một tỷ lệ hình học liên tục là để thực hiện điều này một cách hoàn hảo nhất. Cho bất cứ khi nào trong ba


số, số ở giữa giữa hai số bất kỳ là khối (hình lập phương) hoặc hình vuông sao cho, số đầu tiên đối với nó, số cuối cùng cũng vậy,

và ngược lại, cái cuối cùng ở giữa, cái giữa đối với cái đầu tiên cũng vậy, vì cái giữa trở thành đầu tiên và cuối cùng, và lại trở thành cuối cùng

và trước hết trở thành người trung gian, theo cách đó tất cả sẽ nhất thiết phải đóng vai trò như nhau đối với nhau, và bằng cách đó họ sẽ

tạo nên sự đoàn kết. Bây giờ người ta yêu cầu vật thể của vũ trụ phải là một bề mặt phẳng không có chiều sâu, một thước đo duy nhất sẽ

đã đủ để kết nối những người bạn đồng hành của nó và chính nó; nhưng trên thực tế, thế giới có hình dạng rắn chắc và các chất rắn luôn dính liền với nhau,

không phải là một, mà là hai. Theo đó, Thiên Chúa đặt nước và không khí giữa lửa và đất, và tạo ra chúng, trong chừng mực có thể,

tỉ lệ với nhau, như lửa với không khí, không khí với nước, không khí với nước, nước với đất, và do đó Ngài giới hạn

cùng nhau tạo nên một thế giới hữu hình và hữu hình. Vì những lý do này và từ những thành phần như vậy, về số lượng có bốn, phần thân của

vũ trụ được hình thành, hòa hợp nhờ vào tỷ lệ, và từ đó nó có được Tình thân ái, để đi vào

sự thống nhất với chính nó, nó trở nên không thể tách rời bởi bất kỳ ai khác ngoại trừ người đã gắn kết nó lại với nhau. [Timaeus, 31b-32c, Vũ trụ học của Plato: Sự

Timaeus của Plato, do Francis MacDonald Cornford dịch, Bobbs-Merrill, Indianapolis, 1975:43-44]


Agnosis-Emanation “nguyên nhân có trước nguyên nhân”, cơ sở của sự phát xạ .236067976, hay Phi^-3


“Tóm lại, các triết gia bắt đầu chỉ nói về những nguyên tắc trái ngược nhau; nhưng trên những yếu tố này họ biết một yếu tố khác ưu việt hơn, như

được chứng thực bởi Philolaus, người nói rằng Chúa đã tạo ra và nhận ra cái hữu hạn và vô hạn, đồng thời cho thấy rằng ở giới hạn được gắn liền với toàn bộ chuỗi có mối quan hệ lớn hơn với Cái Một và với Vô cực, cái ở bên dưới. Vì vậy, trên hai nguyên tắc này, họ đã thừa nhận một nguyên nhân thống nhất, vượt trội hơn mọi thứ mà theo Archenetus, là nguyên nhân có trước nguyên nhân, và theo Philolaus, là nguyên tắc phổ quát.” [Archytas of Tarentum (400 TCN) M đoạn siêu hình].

.23606 là nguyên tắc riêng tư mà theo đó, Đơn nguyên, trong hình ảnh là Nous, bị 'mổ xẻ' (Bản thân Cái Một luôn là Một, nhưng được phân chia giữa vạn vật tạm thời và tham gia vào hình ảnh của nó “trong bức xạ”-Plotinus). Như chúng ta biết: 1/.23606 = 4.23606 Tính toàn thể, nguyên lý riêng tư này, không có bất kỳ thực thể bản thể nào, được xem tốt nhất là tỷ lệ bức xạ mà Đơn nguyên có “hình ảnh” hay Thượng Đế của nó trong mọi hiện tượng. Trên thực tế, 0,23606, cả về mặt toán học trong tam giác Pythagore của chúng ta và về mặt logic, là “hạt giống” trong đó 1/Phi và Phi được biểu hiện. Agnosis có Chủ thể (Monad, noetic) là Đối tượng (nhìn thấy được), có nghĩa là bức xạ hoặc Phát xạ. .23606 là nguyên lý của mọi sự dư thừa, do đó kakon, cái ác, là 'hạt giống' của các dạng niệm học, hình dạng thực nghiệm và của chính vật chất. Nous được tách khỏi cái một bằng 0,23606, cũng như vật chất và hình thức từ nous, cuối cùng là cơ sở cho Phi, hay chính Bản thể.

Theo nghĩa chặt chẽ nhất, .23606 chính là Dyad chứ không phải 1/Phi. Rõ ràng, sự hòa hợp rằng Cái Một là “nguyên nhân” cho vạn vật sẽ phủ nhận tầm vóc của Đơn nguyên và Nguyên lý của nó, vì Cái Một không thể bị di chuyển, hoặc nó sẽ phụ thuộc vào những gì nó chuyển đến. “Nguyên lý đen tối” tự nó không có nguyên nhân, là “nguyên nhân của vạn vật nhưng bản thân nó lại không có nguyên nhân nào”, không phải là Đơn nguyên bởi chính nguyên tắc trùng lặp vốn không phải của Một, mà là cái mà Đơn nguyên không phải là, hiện hữu. Tự đồng hóa với chính mình về tầm quan trọng của Chủ quan- Ngộ đạo. Không thể có Sự hoàn hảo thứ nhất theo Chủ nghĩa Sáng tạo mà chúng ta, những 'Thần' kém hơn trong lĩnh vực trở thành, có thể nhìn lên trên và tuyên bố rằng một Đấng Tạo Hóa có tri giác vừa nhận thức được tay sai của mình vừa nhận thức được Bản chất của chính mình. Trong một Sự hoàn hảo không có phần, việc tự ngộ là không thể đứng vững về mặt logic. Sự vắng mặt này, “nguyên lý đen tối” này dẫn tới việc hình thành một “Thần thứ hai” - Numenius, là Nous mà Plotinus gọi là Dyad. Nhưng “bộ đôi thực sự” này, cũng được thúc đẩy bởi sự nhận thức chủ quan là nguồn gốc của mọi thứ được tạo ra. Nhưng trước Noetic Dyad vốn “có thật” theo nghĩa là nền tảng cho sự phóng chiếu của Nous tới cái khác, tồn tại sự bất khả tri đối với và về Cái Một.


.23606 của Đơn nguyên không phải là sự suy giảm tiềm năng của Một Đơn vị, mà là sự quy kết khách quan của Đơn nguyên chủ quan, trong đó và bên trong nó không tồn tại khả năng tự nhận thức hay khả năng tri giác, điều này có nghĩa là một Chủ nghĩa Thần sáng tạo, điều mà Plotinus hoàn toàn bác bỏ : “Không có kiến ​​thức trong cái Một”-Plotinus. Chúng ta có thể sớm gán cho thực tại một sự thiếu thốn, hoặc sự vắng mặt trong ví dụ về bóng tối (rằng sự tồn tại của nó không phải là thực chất mà chỉ là sự thiếu vắng, thiếu ánh sáng), như chúng ta sẽ gán cho bất kỳ sự tồn tại nào, về mặt bản thể học hay thực nghiệm, là sự thiếu vắng ngộ đạo. tồn tại từ đầu đến cuối, ngoại trừ trường hợp “một số ít người đã đồng hóa với Điều tốt” -Plato-Plotinus. Nếu chúng ta áp dụng lập luận thiếu hiểu biết của những người theo chủ nghĩa Sáng tạo rằng “Chúa tạo ra con người theo hình ảnh của chính Ngài”, thì Chúa là một kẻ hoàn toàn ngu ngốc, người nhầm lẫn các thuộc tính hiện tượng với bản chất thông minh, không sáng tạo và vĩnh cửu của mình. Ngộ đạo phải được Bản thể “làm cho trở thành” là một cái gì đó nội tại nhưng không được Đơn nguyên, Nous hay cuối cùng là Tâm lý truyền đạt. Sự khuất phục của việc được ủng hộ có nghĩa là .23606, hay agnosis, được công nhận trước hết và cuối cùng được đảo ngược thông qua việc đồng hóa với Điều tốt.


Nói rằng Cái Một là nguyên nhân của bất cứ điều gì sẽ mang lại sự thiếu hụt cho Cái Một rằng nó cần bất cứ thứ gì, đúng hơn là cái không tồn tại, agnosis, một sự vắng mặt thuần túy, là trái ngược với cái Tự vốn có và Tự đồng hóa. vô hiệu hóa sự phát xạ. Những người theo chủ nghĩa Advaitins và Vedan cổ đại là những bậc thầy vĩ đại trong việc tranh luận về phép biện chứng của bản chất và ý nghĩa của “cái không tồn tại, mà là nguyên nhân vô căn cứ của vạn vật được tạo ra”. Dường như không thể đứng vững được, làm sao cái gì không tồn tại lại là nguyên nhân của mọi thứ? Tương tự như vậy, nếu ai đó đáp xuống hành tinh X không có nước, làm sao người này có thể chết vì thứ “không tồn tại”? Câu trả lời rất đơn giản nếu nhìn theo cách này. “Bóng tối của Thần tính” là ở chỗ bên trong nó không có Tự Ngộ, bản chất của nó là một tính chất thuần túy không kiềm chế của Hóa thân trong đó Ngộ đạo Chủ thể phải được “biến thành” bởi người, trong quá trình anamnesis, “quay trở lại nguồn” bằng nhiều cách đồng hóa khác nhau, chẳng hạn như apophasis ('nói đi'), via negativa trong đó mọi tính khách quan theo kinh nghiệm đều bị phủ nhận để tạo gốc rễ cho kiến ​​thức Chủ quan và trí tuệ về Thiên chủ, nguyên tắc mà con người vốn có theo Bản chất. Sự “chuyển hướng” (tat tvam asi) của ý chí (Nous) bên trong con người là cơ sở cho nhận thức thần bí mà Plato và Plotinus gọi là các nhà thần bí nhất nguyên, ủng hộ sự “Thống nhất với Nguyên lý của vạn vật”. Chúng ta chỉ có thể nói về

.23606 như là 'thực' ở vị trí của ngôi vị thứ hai, Nous, còn trước đó, nó chỉ là sự vắng mặt, sự thiếu thốn mà “không ai có thể đo lường được”-Plato, hay “chúng ta không thể nói về một điều gì đó hoàn toàn không tồn tại”. -tồn tại”- Proclus.


Nếu chúng ta làm sáng tỏ bản chất của .23606 và bản chất của nó, thì đó là tấm gương nhiều mặt trong đó Đơn nguyên bất động, không thay đổi được phản ánh dưới dạng vô số những thứ lý trí và hiện tượng, trong đó mọi thứ đều cân xứng (Biểu tượng) với Cái Một và với nhau theo tỷ lệ hoàn hảo với Cái Một hoặc với nhau trong sự hòa trộn. 1/.23606 = 4.23606. Diện tích của 2 tam giác xa A và B ở hình 13 là


.23606, có nghĩa là các góc phần tư vượt quá theo kinh nghiệm là các phần của Dyad không xác định. C cũng có cùng khu vực với A hoặc B, và cả ba đều có Psyche (.381966) làm cơ sở, nhưng chỉ có C là Psyche làm cơ sở của Hữu thể, hay Phi. Psyche (.381966) chia cho .23606 = Phi.


Cũng trong Tetraktys, có 5 ví dụ về 1/Phi, 5 ví dụ về 1-1/Phi, nhưng chỉ có 4 ví dụ về .23606, bởi vì một trong số chúng là 'ẩn', nghĩa là sự lựa chọn riêng tư đối với Monad, xem hình 12. Bản thân Tetraktys bao gồm 1-4, tổng cộng là 10, hay tổng số, nhưng phần cuối cùng còn lại là 0,23606 hoặc thiếu hụt, là động lực cho Emanation, tạo ra tổng số 4,23606.


Tâm hồn, Linh hồn 1-1/Phi .381966, hay Phi^-2


“Làm sao cái không bao giờ giống nhau lại có thể là bất cứ thứ gì được? Vì nếu nó luôn đồng nhất, rõ ràng là nó không nhất thời vào thời điểm đó, và nếu nó luôn luôn đồng nhất và 'chính nó', làm sao nó có thể thay đổi hoặc chuyển động mà không từ bỏ hình dạng của chính mình? [Craylus 439E]


Bởi vì các cơ thể, theo bản chất riêng của chúng, là có thể thay đổi, bất biến và phân chia vô hạn, và không có gì bất biến tồn tại trong chúng, nên rõ ràng là cần có một nguyên lý dẫn dắt chúng, tập hợp chúng và ràng buộc chúng chặt chẽ với nhau; và cái này chúng tôi đặt tên là Soul. Vậy thì nếu linh hồn là một cơ thể có bất kỳ loại cấu tạo nào, ngay cả khi nó nhỏ như (một nguyên tử), thì điều gì sẽ giữ được điều đó?

cùng nhau ? Vì chúng ta đã nói rằng mọi cơ thể đều cần một nguyên lý nào đó có thể giữ cơ thể lại với nhau, vân vân, cho đến vô tận, cho đến khi chúng ta đạt tới cái vô hình. ....Tuy nhiên, có nên nói rằng vì cơ thể có ba chiều nên linh hồn cũng phải như vậy, vì nó


xuyên qua toàn bộ cơ thể, có ba phần mở rộng, và do đó trong mọi trường hợp đều là một cơ thể, thì chúng ta sẽ phải trả lời rằng mặc dù mọi cơ thể đều có ba chiều, nhưng không phải mọi thứ có ba chiều đều là cơ thể. Vì số lượng và chất lượng, bản thân chúng là vô hình, có thể được tính toán một cách định lượng trong những trường hợp nhất định. Tương tự như vậy, linh hồn, bản thân nó không có tính mở rộng, có thể được coi là ba chiều trong trường hợp nó tình cờ xảy ra với một thứ gì đó ba chiều.....Trước những người đó, ai trước đó


Ngoài việc chúng ta đã cố gắng giải thích bản chất của linh hồn bằng toán học như một phương tiện nào đó giữa tự nhiên và siêu nhiên, thì những người gọi linh hồn là một con số khẳng định rằng nó bao gồm sự thống nhất, như một cái gì đó không thể phân chia, và có tính chất kép không xác định ( đa dạng) như một cái gì đó có thể chia được. Tuy nhiên, những người khác quan niệm linh hồn như một hình hình học, nhấn mạnh rằng nó bao gồm một điểm và sự phân kỳ (hoặc một quỹ tích và sự phân kỳ của hai đường thẳng, hoặc một tâm và bán kính của một đường tròn); trong đó số thứ nhất không chia được, số thứ hai chia hết. Trong số ý kiến ​​​​đầu tiên là những người theo phe Aristander, Numenius, và phần lớn những người giải thích; của ý kiến ​​​​thứ hai là Severus. [Các tác phẩm Neoplatonic của Numenius, được Kenneth.Sylvan.Guthrie sưu tầm và dịch, Tập. VI, Những tác phẩm triết học vĩ đại (ed. Robert Navon) Selene Books, Lawrence, Kansas 1987:


44-46]

Trong khung Phi-Series, phần tử "Aether" có thể được hiểu là giá trị phổ biến Phi^-2 = 0,3181966 mà chúng ta đã biết là "Cơ thể", "Linh hồn" và "Tinh thần"





Số đo giả định của phân tử nước ở 104,5 độ được giả định từ số đo qua trục của nguyên tử, thay vì chu vi bên ngoài của hình dạng ảnh hưởng của phân tử, là 108 độ. Tương tự như vậy, nước là PHÂN TỬ CỰC ở mặt phẳng quán tính chữ V ngược được chia dọc theo 85 độ.





Kết luận của Độc Cô Phái

Tôi đã trình bày tất cả những cơ sở khoa học mà trong phần 4 ở trên (Bí mật sâu sắc nhất của nước: Tỷ lệ hài hòa) thực ra sẽ sử dụng đến 3 nội dung còn lại. 

Nghiên cứu kỹ, bạn sẽ có cơ may tìm ra lời giải chính xác. 

Bộ nhớ trong các phân tử nước được lưu trữ dưới dạng hình học điện tích tĩnh điện ba chiều của chúng.
Trí nhớ trong phân tử nước không phải là một phần của nguyên tử. Nó ở dạng ảnh ba chiều của bản chất ảnh ba chiều của điện tích tĩnh điện và nó là dạng hình học bao gồm tổng thể của phân tử nước. Vì vậy, nó không nằm trong các nguyên tử. 

Hai hydro các nguyên tử trong một nguyên tử oxy và điện tích đó là một loại tĩnh điện bị lật đổ trong không gian và các phản không gian, không có đặc tính, chỉ có thuộc tính, và tất nhiên, đó là nơi nó được lưu trữ.

Trí nhớ không được lưu trữ trong nước hoặc nguyên tử, điều này trái ngược với lẽ thường và logic.
Nó không thể ở trong nguyên tử. Điều đó là hoàn toàn không thể. Điều đó phá hủy hoàn toàn dao cạo của Ockham. Nó phá vỡ lẽ thường, nó phá vỡ logic. Nó không tuân theo quy nạp bằng cách sử dụng quy nạp hoặc cụ thể là công cụ quan trọng nhất không còn được sử dụng nữa, rút ​​gọn, vốn là công cụ của những người theo trường phái Pythagore cổ đại, trong đó, và những người theo chủ nghĩa Platon mới, bao gồm cả Aristotle.

Nếu bạn cần một lời giải hoàn chỉnh từ tôi, có thể liên hệ.

Post a Comment

Previous Post Next Post
Đọc tiếp: